Tổ Văn-GDCD
Tài liệu sinh hoạt ngoại khóa
TRƯỜNG THCS LÊ HỒNG PHONG HUẾ
TỔ: VĂN – GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Tài liệu sinh hoạt ngoại khóa
EM LÀM HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH
GIỚI THIỆU CHÙA THIÊN MỤ
Tôi sinh ra ở Hương Long, Huế, tôi yêu cảnh vật bình dị nơi đây. Yêu những âm thanh trầm lắng của tiếng chuông chùa huyền bí. Quả thật nhắc đến Huế, có lẽ Thiên Mụ đã đi vào tâm thức của mỗi người dân. Thiên Mụ là ngôi chùa lịch sử, nổi tiếng nhất đàng trong. Mỗi miền quê trên đất nước đều có những biểu tượng về tôn giáo khác nhau: Nếu chùa Một Cột là biểu tượng của Hà Nội thì ta không thể phủ nhận được rằng Tháp Phước Duyên- Chùa Thiên Mụ là biểu tượng của Huế từ suốt hàng trăm năm kể từ khi nó được khánh thành xây dựng vào năm 1601.
Khi nói đến Huế, người ta nghĩ đến ngay Quần thể di tích triều Nguyễn với những đền đài, thành quách, miếu vũ, lăng tẩm tráng lệ. Và Huế cũng là vùng đất Thần kinh với hàng trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Ai đến Huế mà chưa ghé thăm Chùa Thiên Mụ thì xem như chưa hiểu Huế, như chưa đến Huế. Bởi lẽ đây là ngôi chùa đã có hơn 400 năm tuổi, qua bao biến động đổi thay theo năm tháng. Chùa Thiên Mụ là một trong những hình ảnh biểu trưng cho xứ Huế. Và tiếng chuông Thiên Mụ đã đi vào đời sống văn hóa của người dân xứ Huế từ bao đời nay:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương.”
Chùa Thiên Mụ được xây dựng trên đồi Hà Khê, bên tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế chừng 5km về phía Tây. Chúng ta có thể đến thăm Chùa Thiên Mụ bằng đường bộ hoặc đường thủy, có thể đi bằng thuyền rồng trên sông Hương.
Nhìn chếch về phía tây, hướng lên thượng nguồn sông Hương sẽ thấy dãy Trường Sơn trùng điệp, bên trái là đồi Vọng Cảnh và bên phải có điện Hòn Chén, trong tuyến du lịch ngược dòng sông Hương kỳ thú. Tài liệu này gồm có 3 phần : -Phần 1: Truyền thuyết liên quan đến chùa Thiên Mụ -Phần 2: Chùa Thiên Mụ - Qúa trình xây dựng, trùng tu và hoàn thiện -Phần 3: Kiến trúc trong và ngoài chùa Thiên Mụ
|
Phần I
TRUYỀN THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN CHÙA THIÊN MỤ
CHÙA THIÊN MỤ
Trong số những ngôi chùa cổ có bề dày lịch sử nổi tiếng đã đi vào cội nguồn lịch sử dân tộc, chùa Thiên Mụ vẫn luôn có một chỗ đứng riêng. Nằm bên bờ sông Hương thơ mộng trữ tình, ngôi chùa hiện lên với vẻ đẹp thật kì bí, huyền ảo, nổi tiếng do mẹ thiên nhiên mang lại vừa toát lên vẻ đặc biệt riêng do những câu chuyện, những truyền thuyết thấm sâu vào kí ức của những người con đất Huế.
|
Việc xây chùa của chúa Nguyễn Hoàng gắn liền với một truyền thuyết: Truyền thuyết xưa kể lại rằng: Đồi Hà Khê rất thiêng, đời nhà Đường có một viên đại tướng là Cao Biền từng đi khắp các nơi núi non sông biển nước ta xem ở đâu có khí linh thiêng thì tìm cách yểm đi. Cao Biền thấy trên đồi Hà Khê, có khí thiêng, bèn đào sau chân đồi để cắt mạch đi, khiến cho linh thiêng về sau không cư tụ được. Đêm hôm đó bổng có một người đàn bà thể sắc trông thì còn trẻ nhưng mái tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ ngồi dưới chân đồi than vãn, rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều thì nên lập chùa thờ Phật, thỉnh cầu linh khí trở về nơi núi này để phúc dân giúp nước, tất không có gì phải lo”. Người đàn bà ấy nói xong thì biến mất. Từ đó gò đất được gọi là núi Thiên Mụ.
Khoảng năm 1601, Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên, vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong sau khi rời kinh đô Thăng Long đem quân vào đây định kế lâu dài, ông đã đích thân đi xem địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên phía đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Hỏi ra mới biết, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặt áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nướcNamhùng mạnh”. Vì thế nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ sơn (núi Thiên Mụ). Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp với ý nguyện của dân chúng. Ông cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là Thiên Mụ Tự. (Chùa Thiên Mụ). Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ “Thiên” phạm đến Trời nên cho đổi từ “Thiên Mụ” thành “Linh Mụ” ?(hay bà mụ Linh thiêng). Vấn đề kiêng cử như trên chỉ diễn tiến từ năm Nhâm Tuất (1862) cho tới năm Kỷ Tị (1869). Sau đó, người dân thoải mái gọi hai tên: Chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ.
Phần II
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, TRÙNG TU VÀ HOÀN THIỆN
Lịch sử chùa Thiên Mụ gắn liền với các đời chúa, đời vua Nguyễn như: chúa Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn Phúc Chu, vua Thiệu Trị, vua Tự Đức… đây là những người có công xây dựng, trùng tu cũng như hoàn thiện dần ngôi chùa cổ kính này. Đồng thời bên cạnh đó, sự thành lập chùa cũng gắn liền với câu chuyện truyền thuyết mà đến nay vẫn còn lưu truyền trong người dân xứ Huế.
Chùa được chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu xây dựng năm 1601. Nhưng trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có một ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm.
Theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xú Đàng trong, chùa được xây dựng lại với quy mô hơn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu - Chúa Quốc (1691-1927). Năm 1710, chúa cho đúc một chiếc chuông lớn có khắc một bài minh trên đó.
Đến năm 1714, chúa lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà thuyết pháp, lầu Tàng Kinh, Phòng Tăng, nhà Thiền…mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không con nữa. Ông còn đích thân viết bài văn bia nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây, ca tụng triết lí đạo phật, ghi rõ sự tích hòa thượng Thạch Liêm-người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật Giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng đẹp tuyệt.
|
Với quy mô được mở rộng và cảnh đẹp tự nhiên, ngay từ thời đó, chùa Linh Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Linh Mụ đã dùng được làm đàn tế đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu và tái thiết nhiều lần dưới triều đại các vua nhà Nguyễn.
Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” (mừng sinh nhật thứ tám mươi) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ vua Gia Long, bà nội vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị đã kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: Xây thêm tháp Từ Nhân, sau đổi là Tháp Phước Duyên, đình Hương Nguyện và dựng hai tấm bia thơ văn của nhà vua.
Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Linh Mụ, tháp cao 21m, gồm bảy tầng, được xây dựng ở phía trước chùa. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng phật, bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện.
Chùa Linh Mụ được xếp vào hai mươi thắng cảnh đất thần kinh với bài thơ “Thiên mụ chung thanh” do đích thân vua Thiệu trị Sáng Tác và được ghi vào bia đá dựng gần chùa.
Dịch thơ:
Cao cương cổ sát trấn điền xuyên Trên bến gò xưa chùa lập ra
Nguyệt tướng thường viên tự tại nhiên Bên trời tự tại mãi Gương Nga
Bách bát hồng thanh tiêu bách bát Tiếng ngân trăm tám tan trăm oàn Tăng
Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên Thế giới ba ngàn giải nợ ba
Hoành ngọ nhật u minh cảm Chuông động giữa trưa miền tối Phật
Liêu lượng dần tiêu đạo vi huyền Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia
Thiện nhân tích Thánh công thùy hải vũ Truyền công Phật Thánh tràn non nước
Tăng quả phổ cai diên Nhân quả ươm lành khắp chốn xa
Trận bảo khủng khiếp năm 1904 đã tàng phá nặng nề chùa. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn. Qua nhiều đợt trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như Tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm…cùng bia đá, chuông chùa. Chùa Linh Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quý giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về mặt nghệ thuật. Những tượng hộ pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật…hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kì lịch sử vàng son của chùa Linh Mụ.
Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hằng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam Đào Tấn được đặt gần chiến xe ô tô-di vật của cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963. Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiềng của chùa Linh Mụ, Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo, giúp đời.
Phần III
KIẾN TRÚC TRONG VÀ NGOÀI
CHÙA LINH MỤ
Chùa Thiên Mụ không chỉ đẹp là thắng cảnh của đất thần kinh mà còn là nơi hội tụ vẻ đẹp của những công trình kiến trúc độc đáo. Với bề dày lịch sử của mình, chùa Thiên Mụ đã dần khẳng định được vị thế của mình trong hệ thống những lăng tẩm, đền đài nổi tiếng trên đất nước ViệtNam, góp phần giúp thành phố Huế trở thành một trong những thành phố du lịch nổi tiếng của đất nước.
Toàn bộ các công trình kiến trúc của chùa đều nằm trên một ngọn đồi có bề mặt hình chữ nhật chạy theo hướng bắc nam. Chùa lại được bao bọc bởi khuôn tường thành xây bằng đá mang hình dạng một con rùa thò đầu xuống để uống nước sông Hương.
Toàn cảnh chùa Linh Mụ
Vào thời cực thịnh của chùa, mật độ kiến trúc nơi đây thật dày đặc, có mấy chục công trình. Ngay từ bấy giờ các nhà qui hoạch đã chia khuôn viên chùa ra làm hai khu vực, cách biệt nhau bởi cửa tam quan: khu vực ở trước có mặt bằng như cái đầu rùa, là nơi xây dựng những công trình kiến trúc mang tính kỷ niệm như bia đá, chuông đồng, tháp rùa; khu vực ở sau dành để xây cất các điện thờ Phật và các nhà tăng, nơi các nhà sư ăn ở tu hành, tụng niệm.
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) mật độ kiến trúc ở phần sau dày hơn ở phần trước, nhưng từ thời vua Thiệu Trị (1846) và nhất là thời Thành Thái (1904), thì ngược lại vì phần sau bị hư hại nhiều, phần trước xây dựng thêm.
Theo đà phát triển và hưng thịnh của phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Năm 1710 chúa cho đúc một chiếc chuông lớn có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, Chúa lại cho trùng tu lại ngôi chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền…mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Đến thời các vua Nguyễn chùa cũng được trùng tu vào các năm 1815 thời vua Gia Long và vua Minh Mạng (1831), tiếp đến dưới thời vua Thiệu Trị, vua Thành Thái và được tu sửa vào năm 1957 (điện Đại Hùng được thay thế bằng bê-tông giả gỗ). Trong đợt đại trùng tu năm 2005 đến 2008, ngôi điện Đại Hùng lại được làm lại bằng gỗ như trước.
Điện đại Hùng
Mặc dù ngôi chùa này được xây dựng ở thế kỷ XVII nhưng tổng thể kiến trúc của ngôi chùa này lại chủ yếu được hoàn chỉnh dưới 3 đời vua Nguyễn đó là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Chùa Thiên Mụ được bao quanh bằng tường đá xây hai vòng, bên trong được chia làm hai khu vực:
Khu vực trước cửa Nghi Môn:
Gồm có các công trình kiến trúc: Bến thuyền đúc bê-tông có 24 bậc tam cấp lên xuống, cổng Tam quan là bốn trụ biểu xây sát đường cái, từ cổng Tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện (Đình Hương Nguyện được xây dựng vào năm Giáp Thìn (1844) và Ất Tỵ (1845) nay chỉ còn lại là nền đất và bộ móng xây bằng đá Thanh), sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây xây dưới thời vua Thiệu Trị bằng gạch, cao 7 tầng. Hai bên đình Hương Nguyện có hai lầu bia hình tứ giác (dựng thời Thiệu Trị), lui về phía trong có hai lầu hình lục giác, một lầu để bia và một lầu để chuông (dựng thời chúa Nguyễn Phúc Chu). Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia, tháp).
Bốn trụ biểu và bậc thang dẫn lên chùa
Bi đình
Ở hai bên đình Hương Nguyện là hai bi đình của vua Thiệu Trị. Đó là hai nhà vuông xây gạch theo lối đúc cuốn dày, bốn mặt đều có khoét cửa tò vò. Bi đình phía Đông chứa bia nói về việc xây dựng tháp Phước Duyên nên thường gọi là bia “Ngự chế Thiên Mụ Tự Phước Duyên bảo tháp bi”. Bi đình phía Tây chứa bia khắc thơ của vua Thiệu Trị vào những lúc thăm viếng hoặc vịnh cảnh chùa Thiên Mụ mà nhà vua cho là cảnh đẹp thứ 14 trong 20 thắng cảnh ở chốn Kinh Đô.
Trên cả hai bia đều đề “Thiệu Trị lục niên, tứ nguyệt cát nhật tạo”, nhằm tháng sáu năm Bính Ngọ (1846). Kiến trúc của hai bi đình này rất giống nhau. Nền bi đình hình vuông, dưới cùng có một lớp gạch vồ, nền được lát đá thanh. Phần chính giữa nền ngày xưa lát bằng gạch Bát Tràng. Từ nền lên đến vách cao hơn 2m. Cửa cuốn tò vò ở 4 mặt đều có chiều rộng giống nhau. Trong hai bi đình này đều có hai tấm bia làm từ một tấm đá thanh. Đầu bia có chạm rồng, mây. Bên dưới có một đường chạm hình hoa sen cánh phượng. Từ đuôi rồng, những cánh hoa sen rẽ ra hai ngã cân đối. Nét chữ của văn bia chạm lặn theo lối viết chân phương. Phần đầu bia giáp với thân bia có hai tai ở hai bên. Dưới chân bia cũng có hai bia xòe ra và rộng bằng tai bia. Kể từ chân lên đến đầu bia cao 1,78m.
Tháp Phước Duyên
Phía sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên, một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21m, gồm 7 tầng, mỗi tầng thờ một tượng Phật. Bảo tháp có vị trí đặc biệt quan trọng trong kiến trúc và trong lịch sử chùa Thiên Mụ. Tháp được xây thời vua Thiệu Trị, cách đây gần một thế kỷ rưỡi.
Vua Minh Mạng là người đã nghĩ ra việc xây dựng một ngôi tháp tại chùa Thiên Mụ để trấn yểm cho Kinh thành song chưa thực hiện được thì nhà vua đã băng hà, chỉ kịp để lại di ngôn cho người kế vị. Vua Thiệu Trị (1841 – 1847) lên nối ngôi. Nhà vua đã cho xây ở Thiên Mụ một ngọn tháp lớn 7 tầng gọi là Từ Nhân tháp, sau đổi lại là Phước Duyên Bửu Tháp. Theo bia hiện còn ở chùa Thiên Mụ thì chính vua Thiệu Trị là người đã vẽ nên đồ án kiến trúc tháp. Cứ như hình tháp hiện nay, người ta thấy người vẽ họa đồ đã là một kiến trúc sư đại tài, vì tính chất cân đối, kiên cố của ngôi tháp đã tỏ ra có thể chịu đựng bền bỉ với sức phá hoại của thời gian và khí hậu miền nhiệt đới. Vẻ đẹp của ngôi tháp cũng đã tỏ ra đây là một công trình kiến trúc mỹ thuật độc đáo. Ngày xưa, để kiến trúc tháp Phước Duyên chắc chắn phải có một ê-kíp người chung góp ý, mới có được đồ án như vậy. Bởi vào thời đó ông cha ta làm gì tính được lượng giác học, trọng lực và trọng lượng khối gạch đá đồ sộ ấy sẽ có một độ nén, độ lún như thế nào qua thời gian mà các Ngài đã xây dựng được một ngôi tháp vừa bền chắc vừa đẹp như thế.
Phương pháp kiến trúc của ngôi tháp thì hiện nay chúng ta khó lòng biết được. Chỉ biết rằng, trong viễn tưởng tâm linh tín ngưỡng, vua Thiệu Trị đã ra lệnh thiết trai đàn 3 ngày đêm vào tháng 2 âm lịch năm Tân Sửu (1841) để tụng kinh cầu nguyện cho việc xây dựng một tòa tháp ở chùa Thiên Mụ. Công việc được chuẩn bị từ đó cho đến năm Giáp Thìn (1844) thì tháp được khởi công xây dựng và đến năm sau Ất Tỵ (1845) mới xong. Lúc đó vua Thiệu Trị mới 34 tuổi. Lúc đầu tháp được gọi là Từ Nhân, nhưng không hiểu vì lẽ gì, sau khi làm xong vua Thiệu Trị lại đổi tên thành Phước Duyên Bửu Tháp. Tháp được xây chính giữa sân, phần ngoài của chùa, một vị trí rất đắc địa. Nếu tháp được xích ra một chút sẽ soi bóng xuống dòng sông Hương rõ hơn. Nhưng đối với toàn kiến trúc hình chữ “Nhất” sẽ thiếu cân đối, vì tháp sẽ đè nặng lên một đầu. Nếu xích vào một chút, phần trống ở bên ngoài quá nhiều thì tháp lại không soi bóng xuống dòng sông Hương được. Tháp được xây trên một nền bát giác, mặt tháp nhìn về hướng Nam chếch sang Đông 15 độ. Tầng dưới lớn, tầng trên nhỏ dần. Cứ một lớp gạch xây lên lại có sự thu dồn tỷ lệ lại, cho đến tầng cuối cùng. Trên chóp tháp có đặt một hình cam lộ. Chiều cao toàn thân tháp kể từ mặt sân lên tới đỉnh của bình cam lộ cao 37 thước, so với cách đo của thời Thiệu Trị là 5 trượng 3 thước 2 tấc, so với cách tính của chúng ta hiện nay thì được khoảng 21,24 m.
Từ khi xây dựng đến nay tháp đã được trùng tu nhiều lần. Năm Tự Đức thứ 20 năm Đinh Mão (1867), Bộ Lễ có đến kiểm tra một lần vì tua tràng phan đứt và mũ đội trên các Tượng phật bị gián nhấm. Qua nhiều đợt trùng tu tháp vẫn giữ được nhiều nét kiến trúc cơ bản như bây giờ. Như chúng ta đã biết thì tháp Phước Duyên có 7 tầng. Nhìn chung tất cả các tầng tháp đều có kiến trúc rất giống nhau, chỉ khác nhau về màu sắc. Mỗi tầng tháp đều có hoành phi nằm ngang, hai vế đối xứng thẳng tạo thế đăng đối nghiêm nghị cho mặt tháp. Sự đăng đối này có ý nghìa điều hòa tâm tưởng cho con người, vì khi nhìn vào toàn bộ mặt tháp du khách có thái độ khiêm cung tôn kính.
Mỗi một tầng tháp cách nhau một gờ rất lớn, xây có dạng ngửa lên để đỡ lấy những vành mái hẹp. Các đường gờ này được tô vôi, có nhiều màu: Màu vàng, màu đỏ, màu da cam, màu khói, màu sương phủ, màu nước, màu mây, màu rêu… Đường gờ được tô uốn cong lượn như hình cánh sen nhìn nghiêng đỡ lấy vành mái hẹp lợp ngói hình ống Thanh lưu ly hoặc Hoàng lưu ly. Viên ngói được chế tạo như nửa hình ống có hai phần: Phần tráng men màu và phần không tráng men. Tám mái cửa mở, tầng tháp đều được lợp với một màu ngói giống nhau. Tầng dưới kết hợp màu vàng, tầng thứ hai màu lục trông như ngọc, tầng thứ 3 lại màu vàng… cứ như vậy xen kẽ cho đến mái của tầng cuối cùng lại lợp ngói màu vàng, màu ngói lúc đầu của tháp. Nhưng trải qua nhiều sự tác động của thời tiết mưa gió nên màu của ngói không được giống như xưa nữa.
Lòng tháp được kiến trúc theo hình viên trụ. Ở giữa có một viên trụ thẳng đứng từ dưới nhìn lên tháp. Quanh viên trụ chính này là lối đi lên tháp bằng nhiều bậc cấp theo đường xoáy ốc. Muốn vào tháp, người ta đi qua 2 cánh cửa bằng đồng mở cánh ra ngoài, lại mở khóa ở cánh cửa gương ở bên trong có khung gỗ sơn vàng, trang trí bằng nhiều hình chữ nhật, nhiều ô vuông, đẩy 2 cánh cửa vào trong thì người ta đứng ngay trước bàn thờ đức “Trung Thiên Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Ni Phật”. Bàn thờ được xây lõm vào viên trụ lòng tháp dưới hình thức một vòm cuốn tò vò. Qua tay phải để lên 11 tầng cấp đi vòng phía sau sang tay trái, đến trước tầng thứ 2, ở đây thờ đức “Ca Diếp Phật”. Tiếp tục đi qua tay phải để lên 11 bậc cấp vòng ra sau, lên bên trái là tầng thứ 3. Đến trước bàn thờ “Câu Ná Xá Mâu Ni Phật”. Lại đi vòng quanh lên 11 tầng cấp thì đến tầng thứ 4. Tầng này thờ “Câu Lưu Tôn Phật”. Lại đi vòng qua tay phải, lên 10 tầng cấp, để từ tay trái đi ra trước bàn thờ “Tì Xá Phù Phật” ở tầng thứ 5. Đi tiếp vòng quanh để lên 9 bậc cấp, vòng qua phía trái để đến tầng tháp thứ 6, thờ đức “Thi Khí Phật”. Tất cả các bàn thờ Phật đều được kiến trúc và chạm hoa văn giống y như của tầng đầu tiên, chỉ có điều càng lên thì càng hẹp lại mà thôi. Để lên được tầng trên cùng của tháp chúng ta phải bước qua độ một bước thì thấy trước mắt có một cái thang bằng gỗ lim. Ngày xưa, thang không phải được kê thường trực ở đó mà chỗ này chỉ trống không. Nhìn lên, khung vuông ở bên trên lại có tấm cửa bằng đồng đóng khít lại và có khóa rất chắc chắn. Sở dĩ lại có lối kiến trúc lạ như vậy là bởi vì ở tầng trên cùng này pho tượng phật được đúc bằng vàng khối. Ngoài ra còn có bộ chén, bình trà bằng ngọc quý, lư hương, chân đèn, kể cả lò trầm, đài nước… Tất cả đều được đúc bằng bạc nén. Cầu thang này ngày xưa do Bộ Công cất giữ. Theo sử sách ghi lại thì kể từ năm Canh Thìn (1940) đến năm Nhâm Ngọ (1942) tầng trên đã xảy ra vụ trộm tượng phật bằng vàng ròng.
Do đặc trưng về kiến trúc, về màu sắc, nhất là các màu ngói Thanh lưu ly, Hoàng lưu ly, độ nung của các loại ngói này, và nét trang trí hoa văn độc đáo mà tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ được xem là một công trình văn hóa mang sắc thái mĩ thuật đặc sắc cho nền văn hóa Phú Xuân.
Tháp Phước Duyên có sự giao thoa của nhiều nền văn hóa vùng Á Đông, và nhất là trên bán đảo Đông Dương. Đó là văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ và nhất là văn hóa Đại Việt. Bảo tháp Phước Duyên cũng thể hiện nét đặc sắc riêng của nền văn hóa Phú Xuân. Tuy nói là có sự giao thoa của những nền văn hóa cổ song các yếu tố ngoại lai đã bị biến đổi và dung hòa gần hết. Nói chung, bảo tháp Phước Duyên là một kiến trúc văn hóa dung hợp được hai nền văn hóa Trung Quốc và Chăm Pa để sáng tạo ra một nền văn hóa Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 19. Nói một cách khái quát hơn, bảo tháp Phước Duyên là một thành tựu rực rỡ về tinh thần biết dung hòa và sáng tạo của Việt Nam.
Bàn thờ Phật trong tháp Phước Duyên
Lầu chuông, lầu bia:
Hai công trình nằm trên trục ngang với tháp Phước Duyên là hai nhà lục giác ở hai bên. Được xây dựng sớm hơn hai bi đình tứ giác 31 năm, hai nhà lục giác này thuộc kiến trúc mỹ thuật thời vua Gia Long, cùng lần với Nghi Môn, lầu chuông và lầu trống ở phía bên trong. Chúng cũng biểu trưng cho sắc thái kiến trúc thuộc về văn hóa của một triều đại khác với triều đại Thiệu Trị, hai nhà lục giác này trông rất bề thế, kín đáo và kiên cố hơn hai bi đình tứ giác kia. Đó chính là đặc trưng của mọi kiến trúc dưới thời vua Gia Long.
Nền xây bằng gạch vồ, lại cũng khác với hai tứ giác ở phía ngoài ở chỗ là hai nhà lục giác này có xây dựng bậc tam cấp để đi lên. Mặt hai nhà luc giác đối nhau, tức là đều quay ra tháp. Mặt nền được lát viền một lớp đá thanh xung quanh, tất cả có khoảng 30 viên đá. Ngày xưa, giữa nền được lát bằng gạch Bát Tràng, nhưng trong đợt đại trùng tu năm Mậu Tuất (1958) người ta đã tráng thay bằng xi măng. Trên nền lục giác là ngôi nhà đúc cuốn bằng gạch và vôi keo hồ.
|
Nhà lục giác phía Tây là gác treo Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn, một cái chuông lớn. Đại Hồng Chung là một công trình đặc sắc về việc trình bày nhiều mô típ của nghành điêu khắc, hội họa, ngoài ra lại còn đặc sắc về kỹ thuật đúc đồng cỡ lớn nữa. So với chuông Gia Long ở trên gác chuông cao, ta thấy Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn có kĩ thuật đúc đồng tốt hơn. Nếu so với Đại Hồng Chung của vua Thiệu Trị đúc vào năm Bính Ngọ (1846) hiện còn để lại chùa Diệu Đế, người ta lại thấy rõ kỹ thuật đúc đồng dưới thời minh vương Nguyễn Phúc Chu đã đạt đến trình độ tinh xảo nổi bật mà các đời sau không sao theo kịp. Chuông cao 2,5m nặng 3.825 cân xưa.Chuvi của chuông rất lớn, chu vi miệng chuông đo được là 4,36m. Vòng cườm đo được 3,6m. Còn chu vi ở giữa thân là 3,56m. Đường kính miệng chuông kể từ bên này sang bên kia theo vòng ngoài đo được là 1,36m. Mặt trên quả chuông có 8 chữ Thọ khắc theo lối chữ Triện, ở giữa thân chuông chia làm 4 khoảng, khắc bài viết của chúa Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi những hình ảnh long, vân, nhật, tinh, ở phần dưới khắc hình bát quái và thủy ba. Tương truyền rằng tiếng chuông Đại Hồng Chung vang xa 12 dặm. Có nghĩa là từ chùa Thiên Mụ đánh mà ở biển Thuận An vẫn có thể nghe được. Vì vậy người xưa đã sáng tác ra bài thơ sau:
Nhà lục giác phía Đông chứa bia của Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu dựng trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch dài 2,2m, rộng 1,6m. Bia nói về việc xây dựng chùa Thiên Mụ vào năm Giáp Ngọ (1714), cao 2,6m, rộng 1,25m. Đây chính là tấm bia mà Phan Huy Ích đời Tây Sơn đã từng mô tả trong câu: “Dựng bia đá trắng khắc văn ghi tiệc”. Thực ra chỉ có đầu bia và con rùa là bằng cẩm thạch trắng, còn thân bia là cẩm thạch màu đen. Toàn bộ sự trình bày ở bia này là cả một công trình điêu khắc có giá trị mỹ thuật rất lớn. Bia dựng trên lưng một con rùa, con rùa nằm trên cái bệ, bệ lại được chạm thành một cái kỷ có bốn chân quỳ và một đường hồi văn. Theo quan niệm tâm linh của người thời xưa, rùa là một trong tứ linh “long, lân, quy, phụng”, nó biểu hiện cho sự trường tồn vĩnh cửu.
Phía sau tháp Phước Duyên có một tấm bia lộ thiên. Đó là bia của vua Khải Định, dựng vào ngày 27/11/1919 (năm Khải Định thứ tư, Kỷ Mùi). Bia có 15 chữ nói về chùa Thiên Mụ. Do thời gian và những tác động của thời tiết cho nên hiện nay các chữ trên bia đã bị mờ đi nhiều.
Nghi môn
Giữa tháp và điện là cổng chính, gọi là nghi môn (cổng Tam Quan). Vào nghi môn sẽ gặp những pho tượng thần linh cai nghiêm như các vị thiên thần. Hai bên nghi môn là lầu chuông và lầu trống. Chuông lầu được đúc năm 1815, tuy nhỏ hơn quả chuông trước sân nhưng đây lại là quả chuông thường được ngân lên hàng ngày theo nhịp thời gian. Làm xao động lòng người qua bao thế hệ.
Tam Quan là 3 cửa phía trước, cửa chính ở giữa gọi là Trung quan, bên tay phải là Không quan và bên tay trái là Giả quan. Trên cửa Tam Quan có đề 3 chữ Hán “Linh Mụ Tự”. Cửa Tam Quan và hai đoạn thành bên trên có thể xem như phần kiến trúc mặt trước của chùa. Phía tây có lầu trống, phía đông có lầu chuông. Tất cả là những kiến trúc có từ thời vua Gia Long làm lại chùa Thiên Mụ từ năm Ất Hợi (1815).
Biển tên chùa
Tam Quan là phần cửa chính đi vào chùa. Nhìn đại thể Nghi Môn có hai phần rõ ràng, phần dưới gồm có 3 cửa chính. Tất cả đều được xây trên nền một hình chữ nhật rộng 4,76m và dài 13,6m. Lên 3 bậc Tam cấp thì đi đến nền Tam Quan. Hai đầu bậc tam cấp đi lên có đắp hình rồng và kiểu thức hóa. Nền này ngày xưa được lát gạch Bát Tràng, song từ đợt trùng tu năm Kỷ Hợi (1959) thì người ta tráng xi măng, chỉ ngoài mép có viền bằng đá Thanh. Từ ngoài nhìn vào, theo chính diện, người ta thấy Tam quan được chia làm ba gian, cách nhau bằng những bức vách. Trước mỗi bức vách được kiến trúc thành một trụ vách. Ba gian của Tam quan có chiều dài khác nhau, gian giữa rộng hơn hai gian cửa hai bên. Mỗi cửa đi vào có đắp tượng Kim Cang Hộ Pháp rất lớn bằng đất sét trộn trấu và rơm, bên ngoài sơn phết bằng vôi màu. Ba cửa có tất cả là 6 pho tượng, các pho tượng này ngày xưa đều đứng trên bệ có lát gạch Bát Tràng, hiện tại thì có lát xi măng. Mỗi tượng đều có dáng điệu riêng, một vũ khí và cách cầm vũ khí riêng, nét mặt rất sinh động. Qua những pho tượng này là đến cửa, cả 3 cửa đều được kiến trúc lối uốn tò vò ở bên trên. Sau các cung uốn tò vò, mỗi cổng có hai cánh rất lớn đóng bằng gỗ cứng. Hai cửa hai bên đều có ngói lợp tận nóc, còn cửa giữa lại côi lên phần đầu. Phần này lại hướng mặt vào chùa và quay lưng ra bên ngoài. Bốn góc đều có giao cù cách điệu. Hai nóc của tầng dưới thì hai đầu Đông - Tây vẫn có hình đám mây cách điệu hóa rồng. Hai bên Tam quan có hai dãy thành cao kéo dài ra tận hai đầu ở hướng Tây và hướng đông. Cuối hai cửa này là hai cửa vào kiến trúc theo kiểu cổ rất to và trình bày nhiều gạch men có hoa văn, nhưng cửa này ngày nay chỉ còn là vết tích.
Kim Cang Hộ Pháp
Lầu chuông, lầu trồng
Phía trên hai đoạn thành là lầu trống và lầu chuông, những kiến trúc đã có từ thời vua Gia Long làm lại chùa năm Ất Hợi, từ đó đến nay đã qua nhiều lần sửa chữa, vị trí và các kiến trúc vẫn giữ theo cách cổ truyền ngày xưa
Lầu chuông, lầu trống xây đăng đối hai phía nghi môn, được xây trên một cái nền cao hơn la thành, từ nền dưới lên đên mặt nền trên xem như là một trụ vuông thẳng đứng, bên trong ruột xây đặc. Chúng ta có thể đi từ mặt đất lên gác chuông, trống bằng những tầng cấp. Tất cả những đòn tay, rui mè ở phần mái lầu chuông đều từ xưa truyền lại nên có chỗ đã có dột nát cũ kĩ. Mái và chái lầu chuông, trống đều được lợp ngói liệt, trên nóc có một đường tàu nóc. Chính giữa có một búp hoa sen, hai đầu tàu nóc có hoa văn hoa lá uốn cong lên. Bốn mái có đến 8 giao cù được tạo hình theo thế “mỏ cua”. Xung quanh phần mái lợp có đóng tua viền vân kiên bằng gỗ chạm.
Trên nền gác giá treo chuông được dựng theo chiều dọc với dãy thành. Chuông được treo lên giá bằng hai cái đai sắt rất lớn. Chuông này được đúc dưới thời vua Gia Long. Chuông có âm thanh kỳ diệu thường được gọi là tiếng chuông Thiên Mụ. Chuông này nhỏ hơn chuông thời chúa Nguyễn Phúc Chu để ở nhà lục giác bên ngoài Nghi môn. Nhưng hình thái quả chuông thì tương tự nhau. Chỉ khác là thân chuông thời vua Gia Long không có khắc chữ nhiều như chuông thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Nhưng lại giống nhau là khung ở bên trên hai chuông đều có 8 chữ “Thọ” triện. Chuông thời vua Gia Long có nét đặc trưng riêng mà không nơi nào có và không thời nào có: Đó là âm thanh của quả chuông. Âm thanh này huyền diệu đến nỗi mấy chữ “Hồi chuông Thiên Mụ” hoặc “Tiếng chuông Thiên Mụ” đã trở thành một thành ngữ lung linh ảo điệu để đi vào thơ văn, phim ảnh và âm nhạc. Biết bao bài hát nói về xứ Huế đã dùng những chữ này để hát lên trong điệu nhạc trầm buồn, gợi nhớ
Trên nền cao của gác trống đặt giá trống, giá này được chạm trổ hình rồng, đuôi rồng ở dưới đế, hai đầu rồng ngẩng cong ra hai bên để đỡ lấy vành tang trống. Trừ hai đầu rồng, còn tất cả các thanh gỗ đều chạm thành vảy rồng. Điểm đặc biệt là tang trống rất lớn, bằng gỗ mít đục luôn theo hình thân cây chứ không gép. Đường kính miệng trống đo được là 1,08m, đường kính giữa bụng trống là hơn 1,4m.
Lầu chuông, lầu trống
Phía trong cửa Nghi môn có hai dãy nhà đối diện nhau là dãy Lôi Gia. Mỗi dãy có 3 pho tượng Dược Xoa Đại Tướng rất lớn.
Tượng Dược xoa
Khu vực phía trong cửa Nghi Môn:
Gồm các điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm, nhà Trai, nhà khách, vườn hoa, phía sau là hồ nước và vườn thông tĩnh mịch.
Điện Đại Hùng
Lối giữa từ Nghi Môn dẫn thẳng vào Bảo điện Đại Hùng (người hùng là đức Phật, có quyền lực chế ngự mọi quỷ sứ), một tòa nhà lớn gồm có hai phần: tiền đường năm gian hai chái và chính đường, ba gian hai chái họp lại thành bốn mái, hai mái chồng nhau, nóc chính điện cao hơn nóc tiền đường. Trên nóc tiền đường có hai con rồng chầu một Pháp Luân trong có chữ Phật. Trên nóc chính điện cũng có hai con rồng chầu một mặt trời giữa bảy ngọn lửa sắp dọn thành búp hoa sen trong có chữ Vạn. Hai đầu chái chính điện và tiền đường có hình con dơi gắn mảnh sành, sứ. Trong tiền đường trang trí giản dị, có hai vế đối 12 chữ của vua Thiệu Trị và hai vế đối 21 chữ của triều đình vua Bảo Đại (1913-1997). Ở chính giữa, một tượng đồng rất lớn đức Phật Di Lặc Maitreya, tai lớn dài, cao 0,80m, đặt trên một bệ lớn bằng gạch cao hơn 1m. Ngài ngồi vui thích, chân mặt co lên, chân trái xếp bằng, áo trạc ra cho lòi cặp vú và cái bụng phệ, miệng cười thoải mái. Treo trên pho tượng là bức hoành phi sơn son chữ lớn Linh Thứu Cao Phong (đỉnh núi nơi đức Phật chuyển pháp lần thứ hai, giảng bộ Kinh Diệu pháp liên hoa), thủ bút của chính chúa Nguyễn Phúc Chu, lúc trước treo trong chính điện. Một bảo vật còn xưa hơn trong tiền đường là cái khánh đồng dài 1,60m, rộng 0,55m, treo trên một cái giá gỗ, đúc ở Phường Đúc, trang trí hai mặt: một mặt đề tên Bình Trung Quán Khánh và niên hiệu Vĩnh Trị nhị niên tuế Đinh Tỵ (tức là 1677) trọng thu tạ ; mặt kia đề tên người phụng cúng Hội chủ Trần Đình Ân đạo hiệu Minh Hồng, pháp danh Tịnh Tín, Thập phương công đức và hình sao Bắc Đẩu nằm giữa nhị thập bát tú, trên một mặt trời với bốn ngọn lửa. Đông Triều Hầu Trần Đình Ân (1626-1707) là nhạc gia của Nguyễn Khoa Chiêm, cả hai đều làm quan to trong triệu Minh Vương. Có thể tin là khánh đã được đúc cho chùa Bình Trung và sau đưa qua chùa Thiên Mụ.
Chính đường hay thượng điện chiếm toàn bộ chiều dài ba gian của điện, dài 30m, rộng 12m, lúc trước cột, kèo, xuyên, trến đều làm bằng gỗ lim, gỗ sao, nền lát gạch Bát Tràng, từ ngày trùng tu năm 1958, được thay bằng xi măng cốt sắt. Ở tiền đường khách thấy ngay một bức hoành phi mang ba chữ Đại Hùng Điện. Trên bàn thờ Phật đặt trong cùng có ba tượng Tam Thế thể hiện Tam Thân, bằng đồng, giữa là đức Thích Ca Mâu Ni Sakyamuni, bên trái có đức A Di Đà Amitabha, bên phải có đức Di Lặc Maitreya, tất cả đều ngồi thiền trên hộp sơn đỏ, hai chân chéo nhau, mỗi vị một ấn quyết khác nhau. Cơ thể dỏng cao, dáng đầu thanh trên một cổ dài, những nếp áo che lấp vai chỉ để lộ những nút giây giữ vạt áo dưới,... nhiều chi tiết kê sắp các tượng nầy trong số hình tượng Phật giáo đẹp nhất ở Việt Nam. Năm 1999, trước bàn thờ nầy có bảy vị Phật nhỏ cũng bằng đồng, khó thấy, lúc trước đặt trong tháp Phước Duyên, nay đã được thỉnh về lại tháp. Trước các vị nầy năm 1999 còn có một tượng đồng Di Lặc tương đối nhỏ hơn và trong tủ kính tượng đức Thế Tôn Sakyamuni. Hai bên bàn thờ, hai vị bồ tát nắm hoa sen Phổ Hiền Samantabhadra cỡi con thanh sư bên mặt, vị Đại Thế Chí Manjushri cỡi con sư tử bên trái, đều được đặt trong tủ kính. Hậu điện chỉ có một bàn thờ Thạch hòa thượng. Theo các sách xưa, thượng điện còn chứa nhiều hình tượng khác, không thuộc về Phật giáo như các thần Nam Tào, Bắc Đẩu đã được loại ra.