Hoạt động ngoại khóa
Tìm hiểu di tích lịch sử Chùa Linh Mụ
TÌM HIỂU DI TÍCH CHÙA LINH MỤ
Tổ Sử - Địa - Công nghệ * Trường THCS Lê Hồng Phong.
“Yêu nước là yêu cuộc sống. Khi tình yêu cuộc sống và tình yêu con người hòa làm 1 thì tình yêu nước mới xuất hiện “ Quả đúng vậy , đối với mỗi người sinh ra trên mỗi mãnh đất khác nhau đều có sự lưu luyến khiến người ta đến thương nhớ về mảnh đất ruột thịt của mình. Tôi sinh ra ở Huế, tôi yêu cảnh vật bình dị nơi đây. Yêu những âm thanh trầm lắng của tiếng chuông chùa huyền bí. Quả thật nhắc đến Huế, có lẽ Thiên Mụ đã đi vào tâm thức của mỗi người dân. Thiên Mụ là ngôi chùa lịch sử, nổi tiếng nhất đàng trong. Mỗi miền quê trên đất nước đều có những biểu tượng về tôn giáo khác nhau: Nếu chùa Một Cột là biểu tượng của Hà Nội thì ta không thể phủ nhận được rằng Tháp Phước Duyên- Chùa Thiên Mụ là biểu tượng của Huế từ suốt hàng trăm năm kể từ khi nó được khánh thành xây dựng vào năm 1601. Cuốn tập san gồm có 3 phần :
- Phần 1: Chùa Linh Mụ - Qúa trình xây dựng, trùng tu và hoàn thiện
- Phần 2: Những câu chuyện, truyền thuyết liên quan đến chùa Linh Mụ
- Phần 3: Kiến trúc trong và ngoài chùa Linh Mụ .
Khi nói đến Huế, người ta nghĩ đến ngay Quần thể di tích triều Nguyễn với những đền đài, thành quách, miếu vũ, lăng tẩm tráng lệ. Và Huế cũng là vùng đất Thần kinh với hàng trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Ai đến Huế mà chưa ghé thăm Chùa Thiên Mụ thì xem như chưa hiểu Huế, như chưa đến Huế. Bởi lẽ đây là ngôi chùa đã có hơn 400 năm tuổi, qua bao biến động đổi thay theo năm tháng. Chùa Thiên Mụ là một trong những hình ảnh biểu trưng cho xứ Huế. Và tiếng chuông Thiên Mụ đã đi vào đời sống văn hóa của người dân xứ Huế từ bao đời nay:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương.”
Chùa Thiên Mụ được xây dựng trên đồi Hà Khê, bên tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế chừng 5km về phía Tây. Chúng ta có thể đến thăm Chùa Thiên Mụ bằng đường bộ hoặc đường thủy, có thể đi bằng thuyền rồng trên sông Hương.
Nhìn chếch về phía tây, hướng lên thượng nguồn sông Hương sẽ thấy dãy Trường Sơn trùng điệp, bên trái là đồi Vọng Cảnh và bên phải có điện Hòn
Chén, trong tuyến du lịch ngược dòng sông Hương kỳ thú.
CHÙA LINH MỤ
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, TRÙNG TU VÀ HOÀN THIỆN
Nói đến lịch sử chùa Linh Mụ, gắn liền với các đời chúa Nguyễn như: chúa Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn Phúc Chu, vua Thiệu Trị, vua Tự Đức…đây là những người có công xây dựng, trùng tu cũng như hoàn thiện dần ngôi chùa cổ kính này. Đồng thời bên cạnh đó, sự thành lập chùa cũng gắn liền với những câu chuyện truyền thuyết mà đến nay vẫn còn lưu truyền trong người dân xứ Huế.
Nhưng trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có một ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ QuảngNam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhô lên bên dòng nước xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.
Thuyết xưa cũng kể lại rằng nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ , quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nướcNamhùng mạnh”. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ sơn.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như củng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Do đó, Nguyễn Hoàng cả mừng nên vào năm 1601, ông đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoãnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ”.
Vậy tại sao chùa lại có thêm tên là “Linh Mụ” vì: Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối cơ nghiệp, nhà vua sợ chữ “thiên”phạm đến trời nên đổi từ “Thiên Mụ” thành “Linh Mụ” (hay Bà mụ linh thiêng). Vấn đề kiên cữ như đã nêu trên chỉ diễn ra từ năm 1862 đến năm 1869. Sau đó người dân thoải mái gọi luôn cả hai tên: chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ. Vì rằng: từ “Linh” đồng nghĩa với “Thiêng”, âm người Huế khi nói “Thiên” nghe tựa “Thiêng”, nên khi người Huế nói “Linh Mụ”, “Thiên Mụ” hay “Thiêng Mụ” thì người nghe đều hiểu là muốn nhắc đến ngôi chùa cổ kính này.
Theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xú Đàng trong, chùa được xây dựng lại với quy mô hơn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu-Chúa Quốc (1691-1927). Năm 1710, chúa cho đúc một chiếc chuông lớn có khắc một bài minh trên đó.
Đến năm 1714, chúa lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà thuyết pháp, lầu Tàng Kinh, Phòng Tăng, nhà Thiền…mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không con nữa. Ông còn đích thân viết bài văn bia nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây, ca tụng triết lí đạo phật, ghi rõ sự tích hòa thượng Thạch Liêm-người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật Giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng đẹp tuyệt.
Với quy mô được mở rộng và cảnh đẹp tự nhiên, ngay từ thời đó, chùa Linh Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Linh Mụ đã dùng được làm đàn tế đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu và tái thiết nhiều lần dưới triều đại các vua nhà Nguyễn.
Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” (mừng sinh nhật thứ tám mươi) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ vua Gia Long, bà nội vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị đã kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: Xây thêm tháp Từ Nhân, sau đổi là Tháp Phước Duyên, đình Hương Nguyện và dựng hai tấm bia thơ văn của nhà vua.
Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Linh Mụ, tháp cao 21m, gồm bảy tầng, được xây dựng ở phía trước chùa. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng phật, bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện.
Chùa Linh Mụ được xếp vào hai mươi thắng cảnh đất thần kinh với bài thơ “Thiên mụ chung thanh” do đích thân vua Thiệu trị Sáng Tác và được ghi vào bia đá dựng gần chùa.
Thiên Mụ Chung Thanh
Cao cương cổ sát trấn điền xuyên
Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên
Bách bát hồng thanh tiêu bách kết
Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên
Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm
Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền
Phật tích Thánh công thùy hải vũ
Thiện nhân tăng quả phổ cai diên.
Dịch thơ: Tiếng Chuông Thiên Mụ
Trên bến gò xưa chùa lập ra
Bên trời tự tại mãi Gương Nga
Tiếng ngân trăm tám tan trăm oán
Thế giới ba ngàn giải nợ ba
Chuông động giữa trưa miền tối
Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia
Truyền công Phật Thánh tràn non nước
Nhân quả ươm lành khắp chốn xa
Trận bảo khủng khiếp năm 1904 đã tàng phá nặng nề chùa. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn. Qua nhiều đợt trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như Tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm…cùng bia đá, chuông chùa. Chùa Linh Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quý giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về mặt nghệ thuật. Những tượng hộ pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật…hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kì lịch sử vàng son của chùa Linh Mụ.
Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hằng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng ViệtNamĐào Tấn được đặt gần chiến xe ô tô-di vật của cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phán đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963. Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiềng của chùa Linh Mụ, Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo, giúp đời.
NHỮNG CÂU CHUYỆN TRUYỀN THUYẾT VỀ
CHÙA THIÊN MỤ
Ngoài câu chuyện nói về sự thành lập chùa trên, thì việc xây chùa của chúa Nguyễn Hoàng cũng gắn liền với một truyền thuyết khác. Truyền thuyết xưa kể lại rằng: Đồi Hà Khê rất thiêng, khoảng đời nhà Đường có một viên đại tướng là Cao Biền từng đi khắp các nơi núi non sông biển nước ta xem nơi nào có khí linh thiêng thì tìm cách yểm đi. Cao Biền thấy trên đồi Hà Khê, có khí thiêng, bèn đào sau chân đồi để cách mạch đi, khiến cho linh thiêng về sau không cư tụ được. Đêm hôm đó bổng có một người đàn bà thể sắc trông thì còn trẻ nhưng mái tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ ngồi dưới chân đồi than vãn, rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều thì nên lập chùa thờ Phật, thỉnh cầu linh khí trở về nơi núi này để phúc dân giúp nước, tất không có gì phải lo”. Người đàn bà ấy nói xong thì biến mất. Từ đó gò đất được gọi là núi Thiên Mụ.
Khoảng năm 1601, Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên, vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong sau khi rời kinh đô Thăng Long đem quan vào đây định kế lâu dài, ông đã đích thân đi xem địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên phía đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Hỏi ra mới biết, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặt áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nướcNamhùng mạnh”. Vì thế nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ sơn (núi Thiên Mụ). Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp với ý nguyện của dân chúng. Ông cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là Thiên Mụ Tự. (Chùa Thiên Mụ). Năm 1862, dưới thời vua Tự Đất, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ “Thiên” phạm đến Trời nên cho đổi từ “Thiên Mụ” thành “Linh Mụ” ?(hay bà mụ Linh thiêng). Vấn đề kiên cử như trên chỉ diễn tiến từ năm Nhâm Tuất (1862) cho tới năm Kĩ Tị (1869). Sau đó, người dân thoải mái gọi hai tên: Chùa Thiên Mụ hay Linh Mụ.
*Chuông chùa gội rửa bụi trần.
Chùa Thiên Mụ hiện có hai quả chuông. Một quả chuông được đúc vào năm Canh Dần (1710) đặt trong một ngôi nhà bát giác phía bên phải tháp Phước Duyên (nhìn từ trong ra). Chuông cao 2,5m, đường kính miệng 1,4m, cân nặng 3285 cân (tương đương 1986 kg).
Chuông Thiên Mụ cấu thành từ một hàm lượng hợp kim dắt biệt, lại mang trong mình gia trị tâm linh nên tạo ra âm sắc vang xa, bay vút lên trời cao, thấu đến lòng người, khiến tâm thanh thảng, giũ sạch bụi trần.
Trên chuông có khắc bài minh của chúa Nguyên Phúc Chu-Chúa Quốc “chú nguyện mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an” Chông này hiện nay được đặt như một pháp khí của chùa mà không đánh. Còn chiếc chuông đang làm nhiệm vụ giữ nhịp thời gian của “tiếng chuông Thiên Mụ” hiện nay được đúc vào năm Gia Long thứ 14 (1815), đặt trên lầu chuông bên trái cổng Tam Quan, để đi vào diện Đại Hùng.
Thượng tọa Thích Trí Tựu, trụ trì chùa hiện nay cho biết: “Từ xưa đến nay, chông chùa đánh mỗi ngày hai lần, lúc 19h30 và 3h30 sáng”. Mỗi lần đánh trong thời gian 60 phút, bằng 108 tiếng chuông để xóa nỗi phiền muộn trong thế gian. Khi được hỏi về con số 108, vị hòa thượng điềm đạm cho biết: Theo giáo lí nhà Phật, chúng sinh trong tam giới (gồm dục giới, sắc giới và vô sắc giới) đều có chung bắt khổ (sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ, oán tằn hội, ái biệt li khổ và cầu bắt đắc khổ). Từ căn bản của 8 điều khổ sẽ dẫn đến 108 nỗi phiền não được chia nhỏ theo trạng thái tâm lí tình cảm. Và trong mỗi tiếng chuông đều mang theo tâm nguyện từ bi gửi gắm đến chúng sinh, giải tỏa nổi oan khiên, chán chường.
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Tho xương”
Đã từ lâu, chàu Thiên Mụ nổi tiếng với 108 tiếng chuông ngày ngày giữ nhịp thời gian, mang theo tâm nguyện từ bi gửi gắm đến chúng sinh, giải tỏa mọi muộn phiền đau khổ. Ấy vậy mà, nơi chốn cữa Phật từ bi này còn được gán một lời nguyền nghiệt ngã. Ngoài những mẫu chuyện nói trên thì chùa Thiên Mụ còn gắn liền vời một câu chuyện tình bi thương, một sự tích đau buồn mà đến nay vẫn còn lưu truyền, người dân Huế thường lấy đó để lí giải nguyên do tại sao những đôi tình nhân thường ít khi cùng nhau tới đây để cầu khấn.
Tương truyền, vào thời Nguyễn có một cặp trai gái yêu nhau thắm thiết. Cô gái là con nhà danh giá, có đủ cả thục. hiền, lễ, nghĩa, đức, trinh. Còn chàng trai thì mồ côi, nghèo khổ. Do đó cuộc tình của họ bị nhà gái phản đối kịch liệt. Suốt năm năm trời, họ vừa lén lút hẹn hò nhau, vừa ra sức thuyết phục bên nhà gái tác hợp cho mối lương duyên nhưng không được. Họ đưa nhau đến chùa Thiên Mụ cầu xin trời phật phù hộ để được sông bên nhau trọn đời, trọn kiếp. Tuy nhiên suốt năm năm tiếp đó, nhà gái không những không thay đổi thành kiến, mà còn ép cô gái lấy một vị quan nhất phẩm trong triều. Bị ép tới đườn cùng, chàng trai và cô gái hẹn nhau ra bờ sông Hương trầm mình tự tử. Họ mong rằng khi sống không được ở bên nhau, thì lúc chết sẽ được gắn bó mãi mãi.\
Ác nghiệt thay, nước sông Hương dìm chết chàng trai, nhưng cô gái trôi dặt vào bờ và được các ngư dân cứu sống. Từ đó cô gái bị gia đình giam lõng trong nhà. Cô luôn tìm cách tự tử để đi theo chàng trai nhưng khoong thành. Thời gian trôi qua, nổi đau mất người yêu dần nguôi ngoai, cô gái theo sự sắp đặt của gia đình, kết hôn với vị quan nhất phẩm nọ và sống cuộc đời sung túc đầy đủ. Oan hồn chàng trai nằm dưới đáy sông Hương chờ mãi không thấy người yêu, hận cho số phận uất trắc của mình, liền nhập vào chùa Thiên Mụ “bục” cho những đôi tình nhân đến đây cầu duyên đều bị chia tán vĩnh quyết đôi đường đôi ngã.
Từ đó, chùa Thiên Mụ đổi tên thành chùa Linh Mụ (tức Bà Mụ Thần Tiên). Những ai dang phong đơn gối chiếc, đến đây thành tâm khấn vái, nhất định sẽ sớm gặp được người trong mộng. Nhưng đã có người yêu rồi mà nhắc nhau đến chùa, ắt phải đứt sợi tơ duyên.
*Phúc họa ở chính mình.
Đức phật có câu “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn” đại ý rằng, con người là chủ của mình, không là nô lệ của ngoại cảnh. Và, một trong các giáo lí của Phật giáo là Lý duyên sinh. Mội sự mọi vật đều do nhiều duyên hợp lại mà thành, hết duyên thì mất.
Phật giáo cũng lại có câu “trên trời, dưới trời chỉ có ta là tối thượng”. Ý nghĩa là không có thượng đế nào sinh ra ta, không có đấng tạo hóa nào sinh ra ta. Câu nói đó còn mang một ý nghĩa khác, ấy là cuộc đời của ta như thế nào: Sướng hay khổ, giàu hay nghèo, hạnh phúc hay bất hạnh tất cả đều do ta quyết định. Phật cũng muốn chỉ cho chúng sinh thấy rằng, con người phải bắt đầu với chính mình, mọi việc trên cuộc đời này là tự mình làm, tự mình quyết định lấy mình. Nếu không tự giác ngộ lấy, thì những điều phù phiếm, xấu xa sẽ chi phối, dắt dẫn khiến chúng ta trở nên ngu muội mà thôi. Vậy thì ắt hẳn, lời nguyền kia có ứng nghiệm hay không là bởi cái duyên của mỗi người mà thôi. Nũa, là nếu tình yêu dôi lứa nếu đủ chân thành và có sự cố gắng nổ lực vun đắp từ hai phía thì dù khó khăn, cách trở mấy cũng có thể vượt qua. Từ xưa đên nay, người ta tin tưởng đạo Phật là đạo từ bi, là đạo hiền lành, đạo vị tha,…Vì sự tin tưởng đó, cho nên khi đến chùa tự nhiên cảm thaawys mình gần với đức Phật. Chuyện kể, trước đây có một ông Đốc học ở Tiền Giang dẫn một đoàn học trò của mình ra Huế. Sau khi viếng thăm một số chùa, ông buộc miệng: “Đi đến chùa rồi, tôi thấy đây là một chổ tắm gội linh hồn của dân thành phố, có lẽ chính nhịp sống xô bồ, ồn ào, đầy rẫy bon chen khiến con người mỗi lần đến chùa thì tâm hồn sẽ được gột rữa được buồn bực, chán nãn. Lối kiến trúc độc đáo, mộc mạc đã khiến cho chốn cổ tự mang lắm nét trầm mặc, tĩnh tại”. Con người trần tục đến đây, ngắm nhìn những di vật xa xưa, đắm mình trong cái không gian thoáng đãng, xanh mát của đất trời, cỏ cây, cũng thấy lòng mình thanh thản đến lạ thường”
KIẾN TRÚC TRONG VÀ NGOÀI
CHÙA LINH MỤ
Toàn bộ các công trình kiến trúc của chùa đều nằm trên một ngọn đồi có bề mặt hình chữ nhật (280X100cm) chạy theo hướng bắc nam. Chùa lại được bao bọc bởi khuôn tường thành xây bằng đá mang hình dạng một con rùa thò đầu xuống để uống nước sông Hương
Vào thời cực thịnh của chùa, mật độ kiến trúc nơi đây thật dày đặc, vì mấy chục công trình. Ngay từ bấy giờ các nhà qui hoạch đã chia khuôn viên chùa ra làm hai khu vực, cách biệt nhau bởi cửa tam quan: khu vực ở trước có mặt bằng như cái đầu rùa, là nơi xây dựng những công trình kiến trúc mang tính kỷ niệm như bia đá, chuông đồng...và khu vực ở sau, thân rùa, dành để xây cất các điện thờ Phật và các nhà tăng, nơi các nhà sư ăn ở tu hành, tụng niệm.
Dưới thời chúa Nnguyễn Phúc Chu (1715) mật độ kiến trúc ở phần sau dày hơn ở phần trước, nhưng từ thời vua Thiệu Trị (1846) và nhất là thời Thành Thái (1904), thì ngược lại vì phần sau bị hư hại nhiều, phần trước xây dựng thêm.
Theo đà phát triển và hưng thịnh của phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1619 – 1725). Năm 1710 chúa cho đúc một chiếc chuông lớn có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, Chúa lại cho trùng tu lại ngôi chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền…mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Đến thời các vua Nguyễn chùa cũng được trùng tu vào các năm 1815 thời vua Gia Long và vua Minh Mạng (1831), tiếp đến dưới thời vua Thiệu Trị, vua Thành Thái và được tu sửa vào năm 1957 (điện Đại Hùng được thay thế bằng bê-tông giả gỗ). Trong đợt đại trùng tu năm 2005 đến 2008, ngôi điện Đại Hùng lại được làm lại bằng gỗ như trước.
Toàn cảnh chùa Linh Mụ
Với quy mô được mở rộng và cảnh đẹp tự nhiên, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao sóng gió lịch sử, chùa Thiên Mụ từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều vua nhà Nguyễn. Năm 1884, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” (mừng sinh nhật thứ 80) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: Xây thêm tháp Từ Nhân (sau đổi là tháp Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng hai tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua.
Mặc dù ngôi chùa này được xây dựng ở thế kỷ XVII nhưng tổng thể kiến trúc của ngôi chùa này lại chủ yếu được hoàn chỉnh dưới 3 đời vua Nguyễn đó là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Từ trên cao nhìn xuống, tổng thể kiến trúc của chùa Thiên Mụ giống hình con rùa đang nằm soi bóng xuống dòng sông Hương. Toàn bộ kiến trúc của chùa nằm trên một ngọn đồi hình chữ nhật chạy theo hướng Bắc Nam. Chùa Thiên Mụ được bao quanh bằng tường đá xây hai vòng, bên trong được chia làm hai khu vực:
* Khu vực trước cửa Nghi Môn:
Gồm có các công trình kiến trúc: Bến thuyền đúc bê-tông có 24 bậc tam cấp lên xuống, cổng Tam quan là bốn trụ biểu xây sát đường cái, từ cổng Tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện (nay chỉ còn lại là nền đất và bộ móng xây bằng đá Thanh), sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây bằng gạch, cao 7 tầng. Hai bên đình Hương Nguyện có hai lầu bia hình tứ giác (dựng thời Thiệu Trị), lui về phía trong có hai lầu hình lục giác, một lầu để bia và một lầu để chuông (dựng thời chúa Nguyễn Phúc Chu). Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia, tháp).
Bốn trụ biểu và bậc thang dẫn lên chùa
Nhìn từ dưới lên chúng ta có thể thấy công trình đầu tiên là 4 trụ biểu là cổng vào chùa.
Phía sau 4 trụ biểu là nền của đình Hương Nguyện. Đình Hương Nguyện được xây dựng vào năm Giáp Thìn (1844) và Ất Tỵ (1845) trùng với thời gian xây dựng tháp Phước Duyên dưới thời vua Thiệu Trị. Sở dĩ bây giờ đình chỉ còn lại phần nền là vì sau trận bão năm Thìn (1904) thổi qua Kinh Thành Huế đã làm nhà cửa điện đài miếu mạo xung quanh Huế sụp đổ rất nhiều. Tại chùa Thiên Mụ, điện Di Lặc phía sau và hai dãy điện Thập Vương ở trước bị sập nát, nên vào năm 1907 khi tái thiết chùa người ta đã cho dẹp những nhà này luôn. Tượng Di Lặc được di chuyển ra trước tiền đường, hai chục tượng Thập Điện Minh Vương được chuyển ra sau điện Quan Âm. Và bộ sườn của đình Hương Nguyện được chuyển ra làm lại trên nền điện Di Lặc mà bây giờ là điện Địa Tạng. Nền Đình được ghép bằng một loại đá ở xung quanh đó là đá Thanh, nền được lát gạch Bát Tràng nhưng về sau đã bị cạy gỡ đem dùng vào nơi khác.
- Bi đình
Ở hai bên đình Hương Nguyện là hai bi đình của vua Thiệu Trị. Đó là hai nhà vuông xây gạch theo lối đúc cuốn dày, bốn mặt đều có khoét cửa tò vò. Bi đình phía Đông chứa bia nói về việc xây dựng tháp Phước Duyên nên thường gọi là bia “Ngự chế Thiên Mụ Tự Phước Duyên bảo tháp bi”. Bi đình phía Tây chứa bia khắc thơ của vua Thiệu Trị vào những lúc thăm viếng hoặc vịnh cảnh chùa Thiên Mụ mà nhà vua cho là cảnh đẹp thứ 14 trong 20 thắng cảnh ở chốn Kinh Đô.
Trên cả hai bia đều đề “Thiệu Trị lục niên, tứ nguyệt cát nhật tạo”, nhằm tháng sáu năm Bính Ngọ (1846). Kiến trúc của hai bi đình này rất giống nhau. Nền bi đình hình vuông, dưới cùng có một lớp gạch vồ, nền được lát đá thanh. Phần chính giữa nền ngày xưa lát bằng gạch Bát Tràng. Từ nền lên đến vách cao hơn 2m. Cửa cuốn tò vò ở 4 mặt đều có chiều rộng giống nhau. Trong hai bi đình này đều có hai tấm bia làm từ một tấm đá thanh. Đầu bia có chạm rồng, mây. Bên dưới có một đường chạm hình hoa sen cánh phượng. Từ đuôi rồng, những cánh hoa sen rẽ ra hai ngã cân đối. Nét chữ của văn bia chạm lặn theo lối viết chân phương. Phần đầu bia giáp với thân bia có hai tai ở hai bên. Dưới chân bia cũng có hai bia xòe ra và rộng bằng tai bia. Kể từ chân lên đến đầu bia cao 1,78m.
- Tháp Phước Duyên
Phía sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên, một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21m, gồm 7 tầng, mỗi tầng thờ một tượng Phật. Bảo tháp có vị trí đặc biệt quan trọng trong kiến trúc và trong lịch sử chùa Thiên Mụ. Tháp được xây thời vua Thiệu Trị, cách đây gần một thế kỷ rưỡi.
Vua Minh Mạng là người đã nghĩ ra việc xây dựng một ngôi tháp tại chùa Thiên Mụ để tấn yểm cho Kinh thành song chưa thực hiện được thì nhà vua đã băng hà, chỉ kịp để lại di ngôn cho người kế vị. Vua Thiệu Trị (1841 – 1847) lên nối ngôi. Nhà vua đã cho xây ở Thiên Mụ một ngọn tháp lớn 7 tầng gọi là Từ Nhân tháp, sau đổi lại là Phước Duyên Bửu Tháp. Theo bia hiện còn ở chùa Thiên Mụ thì chính vua Thiệu Trị là người đã vẽ nên đồ án kiến trúc tháp. Cứ như hình tháp hiện nay, người ta thấy người vẽ họa đồ đã là một kiến trúc sư đại tài, vì tính chất cân đối, kiên cố của ngôi tháp đã tỏ ra có thể chịu đựng bền bỉ với sức phá hoại của thời gian và khí hậu miền nhiệt đới. Vẻ đẹp của ngôi tháp cũng đã tỏ ra đây là một công trình kiến trúc mỹ thuật độc đáo. Ngày xưa, để kiến trúc tháp Phước Duyên chắc chắn phải có một ê-kíp người chung góp ý, mới có được đồ án như vậy. Bởi vào thời đó ông cha ta làm gì tính được lượng giác học, trọng lực và trọng lượng khối gạch đá đồ sộ ấy sẽ có một độ nén, độ lún như thế nào qua thời gian mà các Ngài đã xây dựng được một ngôi tháp vừa bền chắc vừa đẹp như thế.
Phương pháp kiến trúc của ngôi tháp thì hiện nay chúng ta khó lòng biết được. Chỉ biết rằng, trong viễn tưởng tâm linh tín ngưỡng, vua Thiệu Trị đã ra lệnh thiết trai đàn 3 ngày đêm vào tháng 2 âm lịch năm Tân Sửu (1841) để tụng kinh cầu nguyện cho việc xây dựng một tòa tháp ở chùa Thiên Mụ. Công việc được chuẩn bị từ đó cho đến năm Giáp Thìn (1844) thì tháp được khởi công xây dựng và đến năm sau Ất Tỵ (1845) mới xong. Lúc đó vua Thiệu Trị mới 34tuổi. Lúc đầu tháp được gọi là Từ Nhân, nhưng không hiểu vì lẽ gì, sau khi làm xong vua Thiệu Trị lại đổi tên thành Phước Duyên Bửu Tháp. Tháp được xây chính giữa sân, phần ngoài của chùa, một vị trí rất đắc địa. Nếu tháp được xích ra một chút sẽ soi bóng xuống dòng sông Hương rõ hơn. Nhưng đối với toàn kiến trúc hình chữ “Nhất” sẽ thiếu cân đối, vì tháp sẽ đè nặng lên một đầu. Nếu xích vào một chút, phần trống ở bên ngoài quá nhiều thì tháp lại không soi bóng xuống dòng sông Hương được. Tháp được xây trên một nền bát giác, mặt tháp nhìn về hướng Nam chếch sang Đông 15 độ. Tầng dưới lớn, tầng trên nhỏ dần. Cứ một lớp gạch xây lên lại có sự thu dồn tỷ lệ lại, cho đến tầng cuối cùng. Trên chóp tháp có đặt một hình cam lộ. Chiều cao toàn thân tháp kể từ mặt sân lên tới đỉnh của bình cam lộ cao 37 thước, so với cách đo của thời Thiệu Trị là 5 trượng 3 thước 2 tấc, so với cách tính của chúng ta hiện nay thì được khoảng 21m24.
Từ khi xây dựng đến nay tháp đã được trùng tu nhiều lần. Năm Tự Đức thứ 20 năm Đinh Mão (1867), Bộ Lễ có đến kiểm tra một lần vì tua tràng phan đứt và mũ đội trên các Tượng phật bị gián nhấm. Qua nhiều đợt trùng tu tháp vẫn giữ được nhiều nét kiến trúc cơ bản như bây giờ. Như chúng ta đã biết thì tháp Phước Duyên có 7 tầng. Nhìn chung tất cả các tầng tháp đều có kiến trúc rất giống nhau, chỉ khác nhau về màu sắc. Mỗi tầng tháp đều có hoành phi nằm ngang, hai vế đối xứng thẳng tạo thế đăng đối nghiêm nghị cho mặt tháp. Sự đăng đối này có ý nghìa điều hòa tâm tưởng cho con người, vì khi nhìn vào toàn bộ mặt tháp du khách có thái độ khiêm cung tôn kính.
Mỗi một tầng tháp cách nhau một gờ rất lớn, xây có dạng ngửa lên để đỡ lấy những vành mái hẹp. Các đường gờ này được tô vôi, có nhiều màu: Màu vàng, màu đỏ, màu da cam, màu khói, màu sương phủ, màu nước, màu mây, màu rêu… Đường gờ được tô uốn cong lượn như hình cánh sen nhìn nghiêng đỡ lấy vành mái hẹp lợp ngói hình ống Thanh lưu ly hoặc Hoàng lưu ly. Viên ngói được chế tạo như nửa hình ống có hai phần: Phần tráng men màu và phần không tráng men. Tám mái cửa mở, tầng tháp đều được lợp với một màu ngói giống nhau. Tầng dưới kết hợp màu vàng, tầng thứ hai màu lục trông như ngọc, tầng thứ 3 lại màu vàng… cứ như vậy xen kẽ cho đến mái của tầng cuối cùng lại lợp ngói màu vàng, màu ngói lúc đầu của tháp. Nhưng trải qua nhiều sự tác động của thời tiết mưa gió nên màu của ngói không được giống như xưa nữa.
Lòng tháp được kiến trúc theo hình viên trụ. Ở giữa có một viên trụ thẳng đứng từ dưới nhìn lên tháp. Quanh viên trụ chính này là lối đi lên tháp bằng nhiều bậc cấp theo đường xoáy ốc. Muốn vào tháp, người ta đi qua 2 cánh cửa bằng đồng mở cánh ra ngoài, lại mở khóa ở cánh cửa gương ở bên trong có khung gỗ sơn vàng, trang trí bằng nhiều hình chữ nhật, nhiều ô vuông, đẩy 2 cánh cửa vào trong thì người ta đứng ngay trước bàn thờ đức “Trung Thiên Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Ni Phật”. Bàn thờ được xây lõm vào viên trụ lòng tháp dưới hình thức một vòi cuốn tò vò. Qua tay phải để lên 11 tầng cấp đi vòng phía sau sang tay trái, đến trước tầng thứ 2, ở đây thờ đức “Ca Diếp Phật”. Tiếp tục đi qua tay phải để lên 11 bậc cấp vòng ra sau, lên bên trái là tầng thứ 3. Đến trước bàn thờ “Câu Ná Xá Mâu Ni Phật”. Lại đi vòng quanh lên 11 tầng cấp thì đến tầng thứ 4. Tầng này thờ “Câu Lưu Tôn Phật”. Lại đi vòng qua tay phải, lên 10 tầng cấp, để từ tay trái đi ra trước bàn thờ “Tì Xá Phù Phật” ở tầng thứ 5. Đi tiếp vòng quanh để lên 9 bậc cấp, vòng qua phía trái để đến tầng tháp thứ 6, thờ đức “Thi Khí Phật”. Tất cả các bàn thờ Phật đều được kiến trúc và chạm hoa văn giống y như của tầng đầu tiên, chỉ có điều càng lên thì càng hẹp lại mà thôi. Để lên được tầng trên cùng của tháp chúng ta phải bước qua độ một bước thì thấy trước mắt có một cái thang bằng gỗ lim. Ngày xưa, thang không phải được kê thường trực ở đó mà chỗ này chỉ trống không. Nhìn lên, khung vuông ở bên trên lại có tấm cửa bằng đồng đóng khít lại và có khóa rất chắc chắn. Sở dĩ lại có lối kiến trúc lạ như vậy là bởi vì ở tầng trên cùng này pho tượng phật được đúc bằng vàng khối. Ngoài ra còn có bộ chén, bình trà bằng ngọc quý, lư hương, chân đèn, kể cả lò trầm, đài nước… Tất cả đều được đúc bằng bạc nén. Cầu thang này ngày xưa do Bộ Công cất giữ. Theo sử sách ghi lại thì kể từ năm Canh Thìn (1940) đến năm Nhâm Ngọ (1942) tầng trên đã xảy ra vụ trộm tượng phật bằng vàng ròng.
Do đặc trưng về kiến trúc, về màu sắc, nhất là các màu ngói Thanh lưu ly, Hoàng lưu ly, độ nung của các loại ngói này, và nét trang trí hoa văn độc đáo mà tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ được xem là một công trình văn hóa mang sắc thái mĩ thuật đặc sắc cho nền văn hóa Phú Xuân.
Tháp Phước Duyên có sự giao thoa của nhiều nền văn hóa vùng Á Đông, và nhất là trên bán đảo Đông Dương. Đó là văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ và nhất là văn hóa Đại Việt. Bảo tháp Phước Duyên cũng thể hiện nét đặc sắc riêng của nền văn hóa Phú Xuân. Tuy nói là có sự giao thoa của những nền văn hóa cổ song các yếu tố ngoại lai đã bị biến đổi và dung hòa gần hết. Nói chung, bảo tháp Phước Duyên là một kiến trúc văn hóa dung hợp được hai nền văn hóa Trung Quốc và Chăm Pa để sáng tạo ra một nền văn hóa Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 19. Nói một cách khái quát hơn, bảo tháp Phước Duyên là một thành tựu rực rỡ về tinh thần biết dung hòa và sáng tạo của Việt Nam.
Bàn thờ Phật trong tháp Phước Duyên
Hai công trình nằm trên trục ngang với tháp Phước Duyên là hai nhà lục giác ở hai bên. Được xây dựng sớm hơn hai bi đình tứ giác 31 năm, hai nhà lục giác này thuộc kiến trúc mỹ thuật thời vua Gia Long, cùng lần với Nghi Môn, lầu chuông và lầu trống ở phía bên trong. Chúng cũng biểu trưng cho sắc thái kiến trúc thuộc về văn hóa của một triều đại khác với triều đại Thiệu Trị, hai nhà lục giác này trông rất bề thế, kín đáo và kiên cố hơn hai bi đình tứ giác kia. Đó chính là đặc trưng của mọi kiến trúc dưới thời vua Gia Long.
Nền xây bằng gạch vồ, lại cũng khác với hai tứ giác ở phía ngoài ở chỗ là hai nhà lục giác này có xây dựng bậc tam cấp để đi lên. Mặt hai nhà luc giác đối nhau, tức là đều quay ra tháp. Mặt nền được lát viền một lớp đá thanh xung quanh, tất cả có khoảng 30 viên đá. Ngày xưa, giữa nền được lát bằng gạch Bát Tràng, nhưng trong đợt đại trùng tu năm Mậu Tuất (1958) người ta đã tráng thay bằng xi măng. Trên nền lục giác là ngôi nhà đúc cuốn bằng gạch và vôi keo hồ.
Phía sau tháp Phước Duyên có một tấm bia lộ thiên. Đó là bia của vua Khải Định, dựng vào ngày 27/11/1919 (năm Khải Định thứ tư, Kỷ Mùi). Bia có 15 chữ nói về chùa Thiên Mụ. Do thời gian và những tác động của thời tiết cho nên hiện nay các chữ trên bia đã bị mờ đi nhiều.
.Đại hồng chung
Nhà lục giác phía Tây là gác treo Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn, một cái chuông lớn. Đại Hồng Chung là một công trình đặc sắc về việc trình bày nhiều mô típ của nghành điêu khắc, hội họa, ngoài ra lại còn đặc sắc về kỹ thuật đúc đồng cỡ lớn nữa. So với chuông Gia Long ở trên gác chuông cao, ta thấy Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn đã có kĩ thuật đúc đồng tốt hơn. Nếu so với Đại Hồng Chung của vua Thiệu Trị đúc vào năm Bính Ngọ (1846) hiện còn để lại chùa Diệu Đế, người ta lại thấy rơ kỹ thuật đúc đồng dưới thời minh vương Nguyễn Phúc Chu đă đạt đến trình độ tinh xảo nổi bật mà các đời sau không sao theo kịp. Chuông cao 2,5m nặng 3.825 cân xưa.Chuvi của chuông rất lớn, chu vi miệng chuông đo được là 4,36m. Vòng cườm đo được 3,6m. Còn chu vi ở giữa thân là 3,56m. Đường kính miệng chuông kể từ bên này sang bên kia theo vòng ngoài đo được là 1,36m. Mặt trên quả chuông có 8 chữ Thọ khắc theo lối chữ Triện, ở giữa thân chuông chia làm 4 khoảng, khắc bài viết của chúa Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi những hình ảnh long, vân, nhật, tinh, ở phần dưới khắc hình bát quái và thủy ba. Tương truyền rằng tiếng chuông Đại Hồng Chung vang xa 12 dặm. Có nghĩa là từ chùa Thiên Mụ đánh mà ở biển Thuận An vẫn có thể nghe được.
Nhà lục giác phía Đông chứa bia của Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu dựng trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch dài 2,2m, rộng 1,6m. Bia nói về việc xây dựng chùa Thiên Mụ vào năm Giáp Ngọ (1714), cao 2,6m, rộng 1,25m. Đây chính là tấm bia mà Phan Huy Ích đời Tây Sơn đã từng mô tả trong câu: “Dựng bia đá trắng khắc văn ghi tiệc”. Thực ra chỉ có đầu bia và con rùa là bằng cẩm thạch trắng, còn thân bia là cẩm thạch màu đen. Toàn bộ sự trình bày
Số lượt xem : 23